TUYÊN NGÔN LẠC HỒNG

Lâu nay định tạm ngưng xem và comment blog một thời gian vì cảm thấy rất bế tắc, càng đọc càng biết sự thật thì càng chán nản ko biết phải làm gì. Nhưng thấy bài viết dưới đây trên blog Skarlor thì cần lên tiếng đôi lời.

LẠC HỒNG
333 magnify
Tuyên ngôn Lạc Hồng, nguồn: chanlachong.org

Hồi trước, vô tình đọc được bài thơ tựa là Tuyên ngôn Lạc Hồng, tự dưng cảm thấy rất thích, và cũng có lần đã ngạo mạn dám "lạm bàn". Từ đó, cứ đọc đi, đọc lại, ngẫm tới, ngẫm lui sao thấy nó hay quá, bữa nay xin quay lại LẠM BÀN LẦN NỮA VỀ TUYÊN NGÔN LẠC HỒNG.

Nhưng không dám ngạo mạn lạm bàn nội dung, ý nghĩa của thơ như lần trước nữa mà chỉ xin dừng lại ở tựa bài thơ thôi, vì tri kiến còn rất hạn hẹp vậy.

Hai chữ tuyên ngôn thì thiết nghĩ không cần bàn thảo nhiều vì theo định nghĩa của tự điển tiếng Việt thì tuyên ngôn là bản tuyên bố có tính chất cương lĩnh của một chính đảng, một tổ chức hay một dân tộc, … ví như tuyên ngôn độc lập, tuyên ngôn nhân quyền, ... Và tuyên ngôn Lạc Hồng hẳn cũng không ngoài ý nghĩa là bản tuyên bố có tính chất cương lĩnh ấy. Cương lĩnh gì? Cương lĩnh Lạc Hồng.

Bài lạm bàn này xin được xoay quanh ở hai chữ "Lạc Hồng". Khi đọc bài thơ lần đầu, chính hai chữ này đã lôi cuốn tôi. Tôi cứ thắc mắc tại sao không là tuyên ngôn Đổi Mới, tuyên ngôn Thời Đại, tuyên ngôn Phát Triển, … để nghe cho có tính chất hiện đại hoặc sao không là tuyên ngôn dân tộc, tuyên ngôn Việt Nam hay tuyên ngôn Chấn Hưng, Cường Thịnh… để nghe cho hoành tráng với tinh thần tự tôn dân tộc, chấn hưng, xây dựng đất nước cường thịnh mà lại là tuyên ngôn Lạc Hồng, có lẽ cái hay nằm ở điểm này chăng?

Cội rễ Lạc Hồng

Tôi nghe kể rằng Lạc Hồng là nói về cha rồng Lạc Long Quân họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên. Theo huyền sử, họ Hồng Bàng khởi đầu từ vua Kinh Dương Vương. Con của Kinh Dương Vương là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng hiệu là Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sanh ra 100 người con. Âu Cơ đem 50 người con lên núi, Lạc Long Quân đem 50 người con đi xuống miền Nam Hải. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương thứ 1, truyền được ít nhất là 18 đời cho đến năm 258 trước Tây lịch. Các thông tin về các đời vua Hùng được dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hoá đồ đồng – văn hóa Đông Sơn rất phát triển [2]. Và như vậy, nghe đến Lạc Hồng thì ai cũng biết đó chính là tổ tiên, cội nguồn của người dân Việt Nam, dù chỉ là những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết hay những câu ca dao, tục ngữ được truyền miệng chưa có chứng tích khảo cổ để chứng thực nhưng mỗi một người dân Việt đều thừa nhận Lạc Hồng là cội rễ của mình.

Đạo sống Lạc Hồng

Chuyện chứng tích lịch sử, hay bằng chứng khảo cổ thì xin thua vì không biết gì cả, chỉ nghe và kể lại mà thôi. Nhưng ở đây, tôi không phải luận giải hay chứng minh rằng truyền thuyết là lịch sử hay truyền thuyết không phải là lịch sử. Mà chuyện của tôi muốn nói là thông qua những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết được truyền miệng ấy cho đến những câu ca dao, tục ngữ (hiện tại vẫn còn), tổ tiên chúng ta muốn gửi gấm cho chúng ta một đạo lý sống rất sâu sắc … mà nếu ta biết quay trở về với đạo lý ấy, nghiền ngẫm và sống theo thì chuyện "ngoại quốc lân bang kính phục giao" là chuyện thường.

Đạo lý sống ấy là gì?

Đó là "sống trọn vẹn trong cuộc sống với tính người và tình người, sống ngay trong hiện tại, không truy xét quá khứ, không vọng cầu tương lai, thuận với thiên nhiên để cuộc sống tự nó vận hành" [1] mà có người gọi đó là đạo sống Lạc Hồng hay đạo sống Việt.

Đạo sống ấy bắt nguồn từ đâu?

Tôi được biết rằng cách đây rất lâu, ở lưu vực các con sông phía nam sông Dương Tử, người Bách Việt cổ đã biết canh tác nông nghiệp, sống thành cộng đồng hình thành nên nếp sống định canh, định cư đã tạo nên một nền văn minh cổ đại, đó là văn minh lúa nước. "Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng (cái cày, con trâu). Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đông Sơn, … " [2]. Và thời kỳ Hồng Bàng là thời kỳ phát triển cực thịnh của văn minh lúa nước, mà biểu hiện rõ nhất là thời đại của các vua Hùng.

Xét một chút xíu về sử học như vậy để ta thấy rằng nền văn hóa Việt Nam được hình thành trên nền văn minh lúa nước, một nền văn minh cổ xưa vào bậc nhất thế giới mà đến nay vẫn còn tồn tại chứ không tàn lụi như nhiều nền văn minh khác trên thế giới.

Như vậy, đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam là văn hóa xóm làng, bắt nguồn từ nếp sống quần cư hài hòa của nền văn minh lúa nước. Chính sự phức tạp trong kỹ thuật trồng lúa nước đòi hỏi người nông dân phải nắm được những quy luật tự nhiên của trời đất để canh tác cho phù hợp ("trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa", "chuồn chuồn bay thấp trời mưa, bay cao trời nắng, bay vừa trời râm", …), cũng như đòi hỏi phải ý thức được công việc mình đang làm nếu không sẽ giẫm lên mạ khi đang cấy, hay nhổ phải mạ thay vì nhổ cỏ, … Trải qua quá trình canh tác, quan sát thiên nhiên và cảm nhận cuộc sống, tổ tiên người Việt bằng cái thấy chân thực đã biết được: trên có Trời, dưới có Đất và ở giữa khoảng không gian trời – đất có con Người. Từ cái thấy đó cùng với sự hiểu biết các quy luật của tự nhiên thay đổi theo mùa vụ, kết hợp với nếp sống quần cư xóm làng, tổ tiên ta đã hiểu được quy luật biến dịch của thiên nhiên, hiểu được Thiên Thư Vô Ngôn của Trời Đất, hiểu được con người là một phần của thiên nhiên, hiểu được rằng con người cần phải sống hài hòa với nhau và hài hòa với thiên nhiên. Để rồi từ đó, tổ tiên người Việt đã mở rộng tình thương và trí tuệ của mình qua quá trình giáo dục nhân bản tâm linh "học ăn, học nói, học gói, học mở", thờ kính cha mẹ "một lòng thờ mẹ kính cha – cho tròn chữ hiếu mới là đạo con", sống có trước có sau "uống nước nhớ nguồn – ăn trái nhớ người trồng cây", "ai ơi, bưng bát cơm đầy – dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần", biết nhường nhịn lẫn nhau "một điều nhịn, chín điều lành", biết thích nghi "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài - ở ao thì ngưng, ở sông thì chảy", biết tương thân, tương trợ "thương người, người lại thương ta – ghét người mình lại hóa ra ghét mình", "lá lành đùm lá rách",

Từ nếp sống ấy đã tạo nên đạo sống Lạc Hồng, một đạo sống mà với gia đình thì vợ chồng hòa thuận, công bằng "thuận vợ thuận chồng, tác bể đông cũng cạn", "chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa", với xóm làng thì hài hòa với nhau "hòa cả làng", với đất nước thì lấy thôn xã tự trị làm đơn vị hành chánh để phát triển sinh hoạt kinh tế, văn hóa, … với truyền thống "phép vua thua lệ làng" mang tính chất dân chủ; một đạo sống mà đối với các dị biệt về cách nghĩ thì dung hóa "rằng trong lẽ phải có người có ta", với các mâu thuẫn thì khước từ bạo lực "khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời", còn đối với thiên nhiên thì thuận theo trời đất "trông cơ trời đất liệu thời làm ăn" nhưng tất cả quy về con người "trăm hay xoay vào lòng, ngọn đèn được tỏ trước khêu bởi mình", với hiện tượng khách quan thì trước mắt như thế nào thấy y như vậy "con cóc trong hang", thấy rõ "con cóc nhảy ra", "con cóc ngồi đó" thấy rõ "con cóc nhảy đi", không phê bình, không can thiệp, không quan tâm con cóc từ đâu đến (quá khứ), cũng không suy luận để đoán biết con cóc nhảy đi đâu (tương lai), tất cả thuận theo lý thiên nhiên để cuộc sống tự nó vận hành để rồi con người thăng hoa hòa nhập cùng vũ trụ cũng giống như nước bốc hơi vậy.

Như vậy, đạo sống Việt là một đạo sống có thể dung hòa, chấp nhận tất cả, lấy tình nghĩa làm đầu "một bồ cái lý không bằng một tý cái tình", lấy tình người làm then chốt "thương người như thể thương thân", lấy công bằng làm lẽ phải "công bằng là đạo người ta ở đời", một đạo sống với nếp sống chan chứa tính người và tình người đã vượt qua tiến trình tìm cầu, nương tựa vào chữ nghĩa, kinh điển, vượt qua cả nghe và thấy [1] "trăm nghe không bằng một thấy – trăm thấy không bằng một lần trải qua".

Thông điệp Lạc Hồng

Như vậy, thời xa xưa, tổ tiên chúng ta đã vạch ra và sống theo đạo sống ấy, đạo sống Lạc Hồng. Hơn nữa, tổ tiên chúng ta đã khéo léo truyền dạy cho con cháu đời sau thông điệp ẩn tàng về đạo sống đó (thông điệp Lạc Hồng) thông qua các câu chuyện trong huyền thoại, truyền thuyết, hay những câu ca dao và tục ngữ có vần có điệu, dễ nhớ dễ hiểu.

Nói đến thông điệp bỗng dưng tôi lại nhớ đến thông điệp của những người anh (người Kogi) được ký giả Alan Ereira của hãng tin BBC (Anh Quốc) loan báo lần đầu tiên tại kỳ đại hội tôn giáo toàn cầu tổ chức ở Chicago năm 1993. Lần đầu tiên khi đọc thông điệp này, tôi có cảm giác nó như là một truyền thuyết, một huyền thoại vậy. Và tôi lại nghĩ, trên thế giới này chắc hẳn không thể tìm thấy được một nền minh triết nào, một nếp sống này giống như họ vậy. Ấy vậy mà khi tìm hiểu về hai chữ Lạc Hồng, tôi lại thấy được một dáng dấp của lối sống ấy ngay trong lòng dân tộc của tôi mà những đứa con sinh sau để muộn của cha Rồng, mẹ Tiên trong đó có tôi và những người đang sống đã bị "những lớp sơn văn hóa ngoại nhập (Tàu, Ấn Độ, Phương Tây, Bắc Mỹ) đã và đang bao phủ cốt lõi đạo sống Việt, nhiễu loạn tinh hoa tư tưởng Việt, để rồi chúng ta đã ngộ nhận rằng văn hóa Việt là bản sao của văn hóa Tàu, hoặc tư tưởng Việt chỉ là những tư tưởng tổng hợp của Tàu, Ấn Độ và Phương Tây" [1] mà không hề nhận ra thông điệp ẩn tàng về đạo sống Lạc Hồng mà tổ tiên gửi gấm.

Minh triết Lạc Hồng

Quy luật chính yếu của đạo sống Lạc Hồng là dung hóa các dị biệt, trung hòa các đối lập dựa trên tính người và tình người, tiến tới thống nhất, hòa đồng để thăng hoa hòa nhập cùng vũ trụ. Đạo sống ấy đã tạo nên nền minh triết nhân bản Việt (Lạc Hồng), "một nền minh triết dựa trên nếp sống hài hòa nhờ cảm nhận được Thiên Nhiên (hiểu được Thiên Thư Vô Ngôn của Trời Đất) rồi trở thành triết lý sống thái hòa, lấy tình nghĩa làm đầu, thể hiện con đường sống của dân tộc là "đạo làm người". Con đường sống này lấy con người toàn diện làm gốc, không "duy" gì cả. Nếu chỉ duy một mặt nào đó là thiếu xót, lệch lạc. Vì vậy, con đường sống của dân tộc Việt đặc nền tảng trên trí tuệ và tình thương chứ không kêu cầu đến tôn giáo, ý thức hệ hay một hệ thống triết học kinh điển nào; đó là tiến trình thăng hoa cuộc sống và con người với nếp sống tỉnh thức qua quá trình giáo dục nhân bản tâm linh "học ăn, học nói, học gói, học mở" trên nền tảng của Biến hóa, Thăng hoa, Hòa đồng, tương thông với thiên nhiên hòa cùng vũ trụ" [1].

Lại nữa minh triết Lạc Hồng không có "kinh sách, không có Tứ thư, ngũ Kinh, không có Kinh – Luật – Luận, Phật học, cũng không có Kinh Thánh hay sách giáo lý – giáo luật mà chỉ có những câu có vần có điệu, dễ hiểu dễ nhớ, gọi hình gợi cảm, những câu chuyện truyền miệng, và những phong tục tập quán không hề bất biến, nghĩa là có thể tùy thời mà đổi, vứt bỏ đồi phong bại tục, vứt bỏ tư duy độc hại lỗi thời, để kiến tạo con người mới, xã hội mới, giống như nước tự biết gạn đục khơi trong"[1].

Nhiều người cho như vậy là trống rỗng, nhưng "chính cái rỗng không ấy, biểu tượng qua lũy tre làng là cái tâm trống rỗng để không dị ứng, không loại trừ mà tiếp nhận tất cả, trung hòa tất cả, nền văn hóa nào cũng hay, triết lý nào cũng học, tôn giáo nào cũng tốt. Minh triết Lạc Hồng là người chủ hiếu khách, nhưng đầy bản lĩnh và bao dung, đón tiếp tất cả để làm đẹp căn nhà Việt Nam, thoáng mát con người Việt Nam" [1]

Một điều đặc sắc hơn nữa là minh triết Lạc Hồng "không truyền qua tri thức mà truyền vào tâm thức để kết tinh thành văn hiến mấy ngàn năm. Trên nền văn hiến với tâm tre trúc trống rỗng, không để lại gì có vẻ kỳ quan bên ngoài, không có Vạn Lý Trường Thành hay Đế Thiên Đế Thích, không đổ người đổ của để lưu danh vạn đại. Đạo lý dân tộc chỉ lo cho con cháu nên người, sống đúng đạo làm người. Cũng trên nền văn hiến ấy, con cháu xây dựng và phát triển một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc với các truyền thống tốt đẹp, với nền văn minh tình thương và lẽ phải, với cuộc sống tinh thần và vật chất tùy thời mà vượt lên" [1].

Chấn Lạc Hồng

Hiện tại, đất nước Việt Nam đang tích tụ những mâu thuẫn khốc liệt của thời đại về chính trị, kinh tế, ý thức hệ, tôn giáo, … đang bế tắc về tư tưởng, đang khủng hoảng về tâm thức, tâm linh. Chính những bế tắc đó, những mâu thuẩn đó đặt Việt Nam trước nguy cơ xâm lăng của ngoại bang (một cuộc xâm lăng không tiếng súng) và nếu như cuộc xâm lăng này thành công thì đất nước Việt Nam sẽ mãi mãi trở thành con nợ của ngoại bang, dân Việt sẽ mãi mãi làm mọi cho ngoại bang ngay trên mảnh đất của mình, rồi tự mình chối bỏ truyền thống, văn hóa của dân tộc mình để được ông chủ ngoại bang xem mình là người văn minh. (Đau lòng thay!).

Chúng ta phải làm gì đây? Phải chấn Lạc Hồng.

Phải tự khơi dậy cội rễ của mình, phải bình tâm để cảm nhận dòng máu Lạc Hồng đang chảy khắp châu thân mình. phải lắng nghe hơi thở của mình để nghe được thông điệp của tổ tiên, phải chiến thắng những dục vọng thấp hèn, những thói hư tật xấu, tham vọng cá nhân, tị hiềm, tự ti mặc cảm, … đang ẩn tàng trong tâm trí để quay về với nếp sống của đạo sống Lạc Hồng. Phải biết dung hóa những bị biệt, trung hòa những bất đồng, mâu thuẩn trên đạo lý của dân tộc: đạo làm người, lấy tình thương và trí tuệ để bao dung hòa giải, kiến tạo lại nền minh triết Lạc Hồng trong thời đại mới, thời đại kinh tế tri thức.

Cương lĩnh Lạc Hồng

Trở lại với tựa bài thơ, ta thấy Lạc Hồng là cội rễ của dân tộc, là đạo sống của dân tộc, là minh triết của dân tộc nên bài thơ dùng hai chữ Lạc Hồng để làm cương lĩnh cho mục tiêu cường thịnh của Việt Nam trong hiện tại và tương lai rất hay và ý nghĩa, vì:

Trong hiện tại: Lạc Hồng sẽ khơi dậy được cội nguồn dân tộc nhằm hòa hợp, hòa giải chuyện quá khứ thật sự để đoàn kết dân tộc cùng chung tay góp sức xây dựng lại một đất nước Việt Nam giàu đẹp đúng nghĩa trên tinh thần nhân bản đầy tính người và tình người. Lạc Hồng chuyển tải thông điệp của đạo sống Việt góp phần chấn chỉnh đạo đức con người (hiện đang xuống cấp trầm trọng), dần dần đưa con người trở về với chính mình, hiểu được chính mình, hiểu được thông điệp của tổ tiên, thực hiện nếp sống đạo (đạo làm người), cùng giữ cho đất nước được hưng thịnh, phú cường.

Trong tương lai: Lạc Hồng nhắn nhủ chúng ta và con cháu chúng ta phải biết giữ gìn nếp sống hiếu hòa của đạo sống Lạc Hồng, kiến tạo lại nền minh triết của dân tộc (minh triết Lạc Hồng) để dân tộc Việt Nam mãi là người chủ hiếu khách, tiếp nhận tất cả các cái hay, cái đẹp của người rồi dung hóa, trung hòa tất cả dựa trên tính người và tình người để ngôi nhà Việt Nam càng đẹp hơn, con người Việt Nam càng thoáng mát hơn chứ không bao giờ đồng hóa hay ngộ nhận cái hay, cái đẹp của người là của mình, để rồi chấp chặt nó, cho nó là chân lý của mọi thời đại mà không biết rằng trên đời này, không có gì mà không thay đổi, chỉ có sự thay đổi là không bao giờ thay đổi. [Minh triết Lạc Hồng đặt trên nền tảng Biến – Hóa – Thăng hoa – Hòa cùng vũ trụ].

Lại nữa, Lạc Hồng là hiếu hòa, dung hóa, trung hòa chứ không tự tôn, tự cao làm nền tảng cho mối ban giao hòa đồng, tương kính với ngoại quốc lân bang chứ không khiếp nhược, bợ đỡ trước nước mạnh, hà hiếp, khinh miệt nước yếu – điều đó là mầm móng của hận thù, mâu thuẫn, xung đột và chiến tranh.

Cương lĩnh Lạc Hồng là ước muốn, là khao khác của toàn bộ người dân Việt và cũng là di huấn của tổ tiên. Chúng ta, những con người đang hiện hữu trong hiện tại, những con người mang sứ mệnh thay đổi, chúng ta đã thức tỉnh chưa hay vẫn còn mê ngủ, chúng ta đã làm gì để xứng đáng với sứ mệnh của ta chưa?

Sao ta không đem mắt, cùng nhìn về một hướng
Sao ta không đồng thanh cất lên tiếng nói của lương tâm
Sao ta không đem lòng hướng về một mục tiêu chung
Không đem trái tim hòa cùng thành một nhịp
Để cùng nhau ta viết lại sử Lạc Hồng.

Đôi điều lạm bàn về tựa bài thơ tuyên ngôn Lạc Hồng

[1] – Biểu tượng nền minh triết Việt – Tủ sách Việt Thường
[2] – Hồng Bàng – Wikipedia


Skarlor tặng tác giả bài thơ Tuyên Ngôn Lạc Hồng
22.12.4887 – Việt lịch

Có người bảo với tôi rằng bài tuyên ngôn Lạc Hồng này của một người đang sống thời hiện tại, tôi rất ngạc nhiên nhưng cuối cùng thì cũng tin điều ấy vì người nói cho tôi biết là con người đáng tin cậy. Nhưng tôi vẫn có cảm giác bài thơ không phải ra đời vào hiện tại, vì nghe như có gì đó vang vọng âm vang và cả thúc giục từ quá khứ; và là sự đúc kết của cả 1 khoảng thời gian dài của lịch sử dân tộc từ lúc dựng nước, chợt òa ra vào một thơi khắc lịch sủ nào đó trong hiện tại sắp tới, đánh dấu một cột mốc lịch sử mới mẻ chuyển mình của cả đất nước.

Gần đây tôi bắt đầu đến với tâm linh, với phật. Điều đó giúp tôi cảm nhận sâu sắc hơn những gì bài viết này phân tích. Con người ta luôn có nguồn cội, nguồn cội này chính là nhân. Không có nhân thì không có quả, nhân xấu quả xấu, nhân tốt quả tốt. Vậy thì nếu ta không trở về với nguồn cội đẹp thì ta không có tương lai tốt đẹp.

Cảm ơn Skarlor về entry này

4 Comments:

  1. ... said...
    Bác ơi, đọc comment của bác trên blog của Skalor, thì thấy bác viết dạo này bác nghiên cứu về phật học để tìm hiểu về cội nguồn, lại qua nhà bác thất Nhi comment về những đứa trẻ như thế, em cũng đồng ý với Nhi, phải có niềm tin bác ạ,niềm tin đôi khi kỳ bí và huyền diệu lắm, em đồng ý với bác đề một đất nước phát trểền con người ta cần hiểu gốc gác của dân tộc bác; và quan trọng hơn là gốc gác làm người.
    nhi said...
    hum rùi nhi mới dạy mí đứa nhỏ về huyền sử lạc long quân với bà âu cơ tụi nó hỏi có thiệt hok cô :) có đứa bảo cn lag con của Phật :)
    tụi nó dễ thương lắm nếu hok có thay đổi trong tương lai gần đây ...thì thế hệ ngay bi giờ cũng tang thương huống gì là thế hệ mai sau ...đừng chán nản bế tắc anh ạ, phải có niềm tin và hy vọng ...
    psonkhanh said...
    Cảm ơn Nhi và Phù Thủy Nhỏ đã chia sẻ.
    Thien Nhan said...
    Hãy tin tưởng vào tương lai đất nước Việt, hàng ngàn năm trước Tổ Tiên chúng ta đã từng lâm vào hoàn cảnh đen tối hơn bây giờ mà vẫn vượt qua, còn ngày nay dân Việt vẫn còn đó đất nước vẫn còn đó hãy cùng nhau đoàn kết, đừng phân chia Quốc - Cộng ... mà chỉ nghĩ rằng chúng ta đều là người Việt, chỉ nhất thời sai lầm mà nên hiểu: ""vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung ... Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê ... Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện ... " (Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)hãy tin vào nước Việt sẽ tươi sáng trong tương lai ...
    Sấm Trạng:
    Bốc đắc Càn thuần quái
    Sơ cửu thoái tiềm long
    Ngã bát thế chi hậu
    Binh qua khởi trùng trùng
    Ngưu tinh tụ Bảo giang
    Đại nhân cư chính trung
    Dịch nghĩa :
    Bói được quẻ thuần Càn
    Hào sơ cửu rồng lui ẩn
    Tám đời sau ta
    Binh biến khởi trùng trùng
    Sao Ngưu tụ Sông Quí
    Đại nhân ở chính giữa
    Xem thêm năm Kỷ Sửu : http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2009/01/090126_newyear_predictions.shtml

Post a Comment



Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ